Lịch sử hình thành và phát triển
Nghệ thuật chèo ra đời vào khoảng thế kỷ X – XI dưới thời nhà Lý, khởi nguồn từ những hình thức diễn xướng dân gian tại các làng quê Bắc Bộ, đặc biệt là khu vực Đồng bằng sông Hồng. Tương truyền, tổ nghề chèo là bà Phạm Thị Trân – một cung nữ thời Đinh – người đã rời cung cấm về quê dạy dân cách hát xướng, múa diễn, từ đó hình thành nên loại hình nghệ thuật đặc sắc này.
Trải qua nhiều thế kỷ, chèo không ngừng phát triển và định hình bản sắc riêng. Vào thời Lê và Nguyễn, chèo trở thành hình thức nghệ thuật phổ biến trong các dịp lễ hội, đình đám làng xã. Không chỉ là công cụ giải trí, chèo còn là phương tiện giáo dục đạo đức, truyền tải triết lý sống và phản ánh sinh động đời sống lao động, tình yêu quê hương, đất nước.
Điểm đặc biệt của nghệ thuật chèo
Chèo kết hợp nhuần nhuyễn giữa âm nhạc, múa, lời thoại và diễn xuất, tạo nên một loại hình tổng hợp độc đáo. Những yếu tố đặc sắc của nghệ thuật chèo bao gồm:
- Lối kể chuyện bằng thơ lục bát và hát nói, dễ đi vào lòng người, đậm chất trữ tình dân gian.
- Các làn điệu chèo phong phú như: Đào liễu, Cách cú, Tò vò, Hành văn, Lới lơ, Quân tử vu dịch… mang đậm màu sắc địa phương.
- Nhân vật mang tính biểu trưng cao: Thị Mầu lẳng lơ, Thị Kính hiền hậu, anh hề ranh mãnh, Lý trưởng tham lam… tạo nên những điển hình tính cách sâu sắc.
- Tính trào phúng, châm biếm xã hội rõ nét, phản ánh bất công và thể hiện khát vọng về một xã hội công bằng, nhân đạo.
Không gian biểu diễn chèo chủ yếu là ngoài trời, ở sân đình, bãi đất rộng trong các lễ hội làng. Điều này tạo nên sự gần gũi, gắn bó giữa nghệ sĩ và khán giả, khiến mỗi buổi diễn là một cuộc giao lưu văn hóa sống động, đầy cảm xúc.
Thái Bình – Cái nôi của nghệ thuật chèo
Thái Bình được xem là một trong những cái nôi lớn của nghệ thuật chèo. Nơi đây từng nổi tiếng với nhiều gánh chèo đình đám như: gánh chèo Khuốc (Đông Hưng), Hà Xá (Hưng Hà), Sáo Đền (Vũ Thư)… Những làng chèo này không chỉ bảo tồn nguyên vẹn các tích trò cổ mà còn sáng tạo ra nhiều vở mới, phục vụ nhu cầu thưởng thức của người dân.
Trong suốt thế kỷ XX, Hưng Yên là địa phương đào tạo và cung cấp lực lượng diễn viên, nhạc công cho nhiều đoàn chèo lớn trong cả nước. Những nghệ nhân, nghệ sĩ gốc Hưng Yên đã góp phần làm rạng danh nghệ thuật chèo trên sân khấu quốc gia và quốc tế.
Hiện nay, toàn tỉnh có hàng trăm câu lạc bộ chèo quần chúng, hoạt động sôi nổi ở khắp các xã, phường, thôn, tổ dân phố. Chèo không chỉ hiện diện trong các chương trình biểu diễn chuyên nghiệp mà còn lan tỏa mạnh mẽ trong đời sống văn hóa cộng đồng.
Bảo tồn và phát huy di sản nghệ thuật chèo
Trước những thách thức của thời đại, việc bảo tồn và phát huy nghệ thuật chèo là nhiệm vụ cấp thiết. Hưng Yên đã có nhiều chính sách cụ thể nhằm giữ gìn và phát triển loại hình nghệ thuật này:
– Đưa chèo vào trường học: 100% trường học trên địa bàn tỉnh đã đưa chèo vào giảng dạy thông qua các chuyên đề phù hợp với từng bậc học, tích hợp linh hoạt vào các môn học.
– Thành lập câu lạc bộ chèo học sinh: Nhiều trường học duy trì mô hình CLB chèo, tổ chức sân chơi, cuộc thi sáng tác, biểu diễn chèo cho học sinh.
– Hỗ trợ nghệ nhân, nghệ sĩ: Thái Bình ban hành nhiều nghị quyết, chính sách nhằm tôn vinh, hỗ trợ nghệ nhân có nhiều cống hiến trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể.
Năm 2023, Nghệ thuật trình diễn dân gian chèo Hưng Yên chính thức được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản Văn hóa Phi vật thể cấp Quốc gia. Đặc biệt, tháng 3/2024, Chính phủ đồng ý trình UNESCO xem xét ghi danh Nghệ thuật chèo của Việt Nam vào danh sách Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, trong đó có sự góp mặt quan trọng của Hưng Yên.