Từ khi xuất hiện đến nay, các văn bản viết tay bằng chữ Nôm Tày được gìn giữ và lưu truyền dưới rất nhiều hình thức nhưng chủ yếu là bằng phương thức truyền miệng từ thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau. Các văn bản đó được lưu giữ và có vai trò quan trọng trong đời sống cộng đồng của người Tày.
Trong đời sống văn hóa dân gian: Có thể nói, sinh hoạt văn hóa dân gian là môi trường thường xuyên và gần gũi nhất với đời sống của những người dân tộc Tày, trước hết là cư dân nông thôn. Nếu đi từ phạm vi gia đình, dòng họ đến sinh hoạt làng xã, chúng ta được tiếp xúc với các loại văn bản dùng đến chữ Nôm Tày như: Chúc thư, gia phả, khoán ước, hương ước, giấy tờ chia ruộng đất, tục lệ, bùa ngải, văn khắc ghi công đức, văn bản hoạt động lễ hội, diễn xướng và bia khắc trong đền, chùa, miếu…
Sách cổ viết bằng chữ Hán, chữ Nôm
Các văn bản này phần nhiều được viết bằng Hán văn, nhưng có khi được viết bằng chữ Nôm Tày hoặc chữ Hán xen kẽ với chữ Nôm Tày. Đặc biệt là khi ghi tên đất, tên người, tên sản vật địa phương…, rất nhiều tên gọi không thể dùng chữ Hán để ghi lại được.
Trong sinh hoạt văn hóa dân gian của người Tày có hoạt động diễn xướng, hát sli, lượn. Những ca từ trong nghệ thuật diễn xướng dân gian có thể là sáng tác cửa miệng và truyền khẩu là chính, song sau khi chữ Nôm Tày thịnh hành, dần dần sáng tác ca từ dân gian được biên chép lại thành văn bản. Văn bản chữ Nôm Tày đóng một vai trò quan trọng trong việc định hình các ngôn ngữ diễn xướng thành ngôn từ thành văn, nhờ đó mà được lưu giữ lâu dài và được phổ biến rộng rãi. Trong bộ sưu tầm của đồng bào dân tộc Tày hiện ước chừng có khoảng trên dưới 60 pho sách viết bằng chữ Nôm Tày. Chẳng hạn như: Tam Nguyên luận của Bế Văn Phụng, Lượn Hồng nhan tứ quý của Nông Quỳnh Văn được sáng tác vào khoảng thế kỷ XVI – XVII. Và hàng loạt các áng thơ văn không rõ tác giả như: Khảm hải, Nam Kim Thị Đan, truyện Nàng Kim, Nàng Hán, Nàng Quyển, Nàng Ngọc Long, Nàng Ngọc Dong…
Trong đời sống tín ngưỡng: Thực chất tín ngưỡng chính là một phần của văn hóa dân gian. Đó là văn hóa tâm linh trong đời sống của tất cả mọi người dân. Lĩnh vực này tương đối rộng và tồn tại dưới nhiều hình thức phong phú, như những bài văn cúng tế gia tiên, thổ thần, thành hoàng; văn tế hoặc câu đối điếu phúng, thờ phụng người thân hoặc các vị anh hùng liệt sĩ, thờ phụng cúng tế thần linh…. Hiện nay, các văn bản viết tay bằng chữ Nôm Tày ở lĩnh vực này còn khá nhiều, được lưu truyền trong cuộc sống thường ngày của xã hội hiện đại.
Cũng trong đời sống tín ngưỡng của đồng bào dân tộc Tày, khi muốn dựng vợ, gả chồng cho con cái hay xây dựng nhà cửa, chuồng trại chăn nuôi gia súc, bao giờ người ta cũng nhờ thầy giỏi về phong thủy xem ngày giờ tốt, chọn hướng đẹp để khởi sự. Và hầu như các cuốn sách đó đều được ghi lại bằng chữ Nôm Tày. Trong sâu thẳm tâm linh, người Tày tin rằng: “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”, nếp nghĩ đó đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người dân. Chính vì vậy, văn bản chữ Nôm Tày vẫn tồn tại bền bỉ trong đời sống tín ngưỡng của cộng đồng cư dân người Tày trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.
Trong khoa học và giáo dục: Có thể nhận thấy hầu hết các tác phẩm, công trình nghiên cứu của các học giả người Tày dưới thời phong kiến đều dùng chữ Hán để ghi chép các lĩnh vực khoa học, thường được gọi là “Nho y lý số”. Trong đó, chữ Nôm Tày đóng vai trò phụ trợ, đặc biệt là khi cần phải ghi chép trung thực những hiện tượng khách quan về đất nước và con người bản địa. Chẳng hạn, các văn bản ghi chép về lịch sử, địa lý của dân tộc Tày đều được viết bằng văn ngôn chữ Hán. Chữ Nôm Tày được dùng đến trong những trường hợp gọi tên địa danh. Các tác phẩm chữ Hán ghi chép phong tục, sự tích các đền thờ miếu mạo như “Cao Bằng thực lục” của Bế Hựu Cung, “Cao Bằng phong thổ phú” của Nguyễn Thuận…, đều có dùng chữ Nôm Tày để phụ trợ.
Trong việc truyền bá, phổ biến tri thức khoa học, chữ Nôm Tày đóng vai trò hết sức quan trọng. Ví dụ: chữ Nôm Tày được dùng để sáng tác thơ, văn và cả những điều răn dạy con cháu trong cuộc sống thường ngày. Các tác phẩm viết tay bằng chữ Nôm Tày mang sức sống xuyên thời gian, được lưu truyền từ đời này qua đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Việc giáo dục, học hành, thi cử thời xưa dĩ nhiên lấy hệ thống tư tưởng và kinh sách của Nho gia làm nền tảng, chữ Hán đóng vai trò chủ đạo. Mặc dù vậy chữ Nôm Tày vẫn có vai trò nhất định trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Như việc các bộ kinh sách bằng chữ Hán đều được dịch ra chữ Nôm để tiện bề mở rộng dạy dỗ và giáo hóa. Điều đó cho thấy chữ Nôm mới thực sự là phương tiện truyền tải hữu hiệu tri thức đến với tầng lớp nho sinh và những tri thức bản địa.